Phân tích truyện ngắn Làng (Kim Lân) – Văn mẫu 9 – học kỳ 1
Gamzatov đã từng khẳng định: Có thể bứt con người ra khỏi quê hương nhưng không thể bứt quê hương ra khỏi con người. Điều đó muốn đưa ra một chân lý rằng con người dù đi đến đâu cũng không thể quên được nguồn cội, quê hương. Đặc biệt là quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã gắn bó máu thịt với từng bờ ao, giếng nước. Cùng đề tài tình yêu của người nông dân đối với quê hương, Kim Lân hướng tới khám phá vẻ đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác trong tâm hồn những người nông dân qua truyện ngắn Làng. Nói như cách nhận xét của Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn của làng quê, của những người nông dân một lòng đi với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn.
Ra đời vào năm 1948, lấy bối cảnh từ cuộc tản cư trong thời kỳ kháng chiến của nhân dân Bắc Bộ, Kim Lân xây dựng nhân vật ông Hai – người dân làng Chợ Dầu theo kháng chiến tản cư đến vùng tạm trú. Và trong lúc tản cư, biết bao suy tư, trăn trở về ngôi làng thân yêu của ông Hai đã được Kim Lân thể hiện trọn vẹn. Cái hay của câu chuyện không chỉ là riêng việc xây dựng nhân vật thành công mà còn xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, bộc lộ được sâu sắc tình yêu làng, yêu nước của người nông dân.
Ông Hai là người rất yêu làng của mình. Tình yêu của ông đã ăn sâu vào nhận thức vào máu thịt để dù đi tản cư nơi khác như ông vẫn đau đáu hướng về nơi có cái tên quen thuộc Chợ Dầu. Yêu làng, ông yêu tất cả những thứ thuộc về nơi ấy,yêu trong một niềm tự hào mãnh liệt vì mình là người dân làng Chợ Dầu. Ấy vậy mà một hôm ông Hai chính tai nghe được tin làng theo giặc. Xét về mặt hiện thực, chi tiết này rất hợp lí. Ai cũng biết trong những năm kháng chiến, để thực hiện chiêu bài tách quân ra khỏi dân vì dân với quân như cá với nước, thực dân Pháp đã dùng mọi cách bắt bớ, đe dọa và lôi kéo nhân dân về phía chúng. Tuy vậy người nông dân đã bén rễ với Cách Mạng, đặt niềm tin tuyệt đối vào cụ Hồ nên chúng phải tung tin chia rẻ nội bộ rồi đốt làng, phá nhà người dân. Hình ảnh ấy cũng đã xuất hiện nhiều lần trong thơ ca, văn học kháng chiến.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”
(Bếp Lửa – Bằng Việt)
Xét về mặt nghệ thuật nó tạo nên một nút thắt cho câu chuyện. Tình huống này gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí ông lão đáng thương và đáng trọng ấy; tạo ra điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm chân thực và sâu sắc; góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm: phản ánh và ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.Từ đó cũng góp phần vào diễn biến và phát triển câu chuyện.
Làng quê đối với người nông dân không chỉ là nơi chôn nhau, cắt rốn mà còn là nơi dù đi đến đâu cũng mong mỏi ngày về. Ở đó, bao nhiêu thế hệ đã sinh ra, lớn lên. Bao nhiêu cuộc đời đã hóa thành câu chuyện truyền tai nhau để viết nên trang sử rất sống động nhất mang tên xứ sở. Người nông dân bắt đầu tình yêu đất nước bằng yêu từng cây cầu, mái rạ, yêu con đường đến trường, đình làng, bến nước. Thế đấy, tình yêu làng của ông Hai trước Cách Mạng giản dị như tình yêu của một đứa con xa về người mẹ mình, một tình yêu tôn sùng, tự hào có chút hồn nhiên. Mỗi khi kể về làng, ông khoe về cái sinh phần sừng sững ở cuối làng của viên tổng đốc làng ông, cho dù bản thân và nhiều người khác trong lòng đã phải khốn khổ vì cái sinh phần ấy.
Tuy vậy, tình yêu làng của ông có sự chuyển biến mạnh mẽ sau Cách Mạng, khi ấy làng Chợ Dầu trở thành làng kháng chiến. Ông Hai khoe làng ông có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Quê hương được giải phòng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Ông Hai nô nức khi kể về những đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân. Như vậy chúng ta thấy rõ tình yêu làng của ông đã gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống kháng chiến dân tộc.
Vì quá yêu làng nên ông Hai không hề muốn đi tản cư nơi khác. Chỉ vì hoàn cảnh bất đắc dĩ mà ông buộc phải xa làng, xa anh em, đồng chí. Nỗi khổ tâm này cũng nhiều lần khiến ông đau đáu về làng. Ấy vậy nên ông Hai cứ muốn nghe tin tức về làng, không chỉ riêng làng của mình mà ông Hai khao khát được nghe những tin thắng trận từ mọi miền đất nước. Như thế mới thấy được sự phát triển mạnh mẽ trong tình cảm và nhận thức của ông Hai nói riêng và người nông dân nói chung. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Câu chuyện khoe làng cũng thế. Từ chuyện khoe làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra.
Để thấy rõ tình yêu làng của ông Hai, nhà văn đã đặc biệt miêu tả sự thay đổi trong nội tâm lẫn hành động trước và sau khi nghe được tin làng Chợ Dầu theo Tây. Trước khi nghe tin làng chợ Dầu thơ giặc ông luôn nhớ mong làng da diết, ước mơ lớn lao nhất đời ông có lẽ là được trở về làng, được trẻ lại, được tham gia kháng chiến. Như thế để thấy được ông Hai là người rất có trách nhiệm với cuộc kháng chiến và tình cảm gắn bó máu thịt với quê hương. Công việc thường xuyên, đều đặn của ông là đến phòng thông tin để nghe ngóng tin tức. Dù không đọc giỏi nhưng ông vẫn vờ xem để bắt được ai đó có giọng đọc to mà nghe. “Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa” cũng đủ làm ông tự hào quá đỗi “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?” “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ.” Những cái tin ấy càng làm đong đầy niềm tin của ông về ngày tất thắng của Cách Mạng. “Chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”.Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Sự chất phác và tình yêu ghét rạch ròi của người nông dân còn thể hiện ở chi tiết ông mong trời nắng nóng để “bỏ mẹ chúng nó”.
Nhà Văn thật tài tình khi đặt nhân vật mình vào một tình huống éo le để bao nhiêu tâm sự, tình cảm cứ thế mà tuôn ra dào dạt. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc từ miệng những người từ dưới ấy lên, ông Hai sững sờ,xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khó mà có thể tin được điều ấy khi mà lòng ông còn mới ngập tràn những niềm vui thắng trận. Cảm xúc đột ngột tụt dốc, ông Hai cố trấn an bản thân nhưng rồi cũng phải chịu thua khi lời kể của những người tản cư khá rành rọt, chi tiết. Cảm giác hụt hẫng của ông như vừa tự mình đánh mất một điều gì đó lớn lao lắm. Phải chăng tình yêu làng đã quay lưng lại với ông để khiến ông nghẹn ngào, tủi hổ. Cảm giác của một tình yêu đã bị phụ rẫy, một niềm tin đã chết đuối làm ông nghẹt thở. Ông vờ đi nơi khác, vờ như bản thân không hề lay động trước tin dữ ấy nhưng ông không thể đánh lừa được lòng mình. Cứ thế, ông Hai “cúi gằm mặt mà đi”. Nỗi xấu hổ bủa vây lấy ông, nó xui bước chân ông không dám đi con đường nào khác là một mạch về nhà.Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên” Từ nỗi hổ thẹn ông thấy nhục. Nhục vì mình cũng mang bộ mặt của dân làng bán nước. Cả con mình cũng sẽ mang nỗi nhục ấy suốt đời. Nói một cách công bằng, dù làng chợ Dầu theo Tây thì cũng đâu phải lỗi của ông càng không phải lỗi của các con ông. Dù biết vậy ông Hai vẫn cảm thấy đau khổ, cảm giác tội lỗi như bản thân mình đã gây ra. Điều đó cho thấy ông Hai đã tự nguyện gắn bó máu thịt với làng, làng là sinh mệnh, tình yêu làng là lẽ sống. Người nông dân không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng vẫn một mực thủy chung với cách mạng, sự gắn bó bằng lòng tự trọng, không cần ai phải xua đuổi hay miệt thị, bản thân họ cũng tự giày vò chính mình ‘dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu”.
Kiểm điểm từng gương mặt, từng tính cách của mỗi người trong làng, ông Hai khó mà tin được những anh em, đồng chí của mình có thể làm những việc xấu xa như vậy. Tuy nhiên không có lửa làm sao có khói. Như ông nghĩ “ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì”.Một người thích đi và thường xuyên đi như ông mà suốt mấy ngày không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà,nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa,ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà,nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
Trong gian nhà nhỏ giờ lại thêm ngột ngạt vì những ý nghĩ rối tung trong đầu ông. Tiếng thở của ba đứa trẻ trong ánh đèn vàng hiu hắt như chính tương lai của gia đình ông Hai, bế tắc và tuyệt vọng.Ông không biết đi đâu, về làng thi không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây,phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi.Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như trước đây , tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn.Quê hương và Tổ quốc,bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng.
Để vơi đi những tâm tư đè nặng và cũng để giải bày được tấc lòng thủy chung với Cách Mạng, ông Hai đã có cuộc đối thoại với đứa con út. Tuy bên ngoài là cuộc trò chuyện nhưng thực chất chính là cuộc độc thoại đầy xúc động. Một đứa trẻ lên ba không thể nào tự nói lên những điều như thế. Phải có một người cha như ông Hai, một người cha không chỉ truyền giọng điệu mình cho con tập nói, không chỉ gánh tên xã, tên làng trong chuyến di dân mà còn là người cha truyền cho con tình yêu nước, yêu làng sâu đậm trong trái tim hồn nhiên, nhỏ bé. “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” Đứa con nói cũng chính là nói hộ tiếng lòng ông Hai. Dù có thể nào, ông vẫn một mực thủy chung với cách mạng, với cụ Hồ. Ở ông là một niềm tin sắt đá. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này.
Có đứng trước nghịch cảnh, đối diện nỗi đau mới thấy tấm lòng người nông dân đối với cách mạng, đối với kháng chiến không bao giờ thay đổi, dù phải đau khổ tột cùng nhưng nhất định vẫn vẹn lời thề.
May mắn cho ông Hai và cũng nhẹ nhõm cho cả người đọc khi nghe được tin làng chợ Dầu cải chính. Nỗi đau khổ của ông được giải tỏa, niềm vui như nước lũ tràn về. Ông Hai cứ như trẻ ra “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”, ông Hai có khác nào được hồi sinh.Ông “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. Nội dung lời “khoe” của ông có vẻ vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí ấy lại rất dễ hiểu: Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông đang được đón nhận. Nhà văn Kim Lân đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của người nông dân. Họ yêu làng, đó là sự thật. Nhưng họ cũng hiểu được rằng một khi nước mất thì nhà tan, cái làng cái nhà còn hay mất không quan trọng bằng nước mất hay con. Chỉ cần còn tấm lòng con người theo cách mạng, còn kháng chiến thì còn nhà, còn làng.Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Làng nổi bật với tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách, cốt truyện chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc,tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc,sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân. Truyện thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.
Từ việc khắc họa một nhân vật, Kim Lân hướng người đọc đến chân dung của người nông dân trong giai đoạn cam go của cuộc kháng chiến chống Pháp nói riêng và vai trò của người nông dân trong chiến tranh nói chung. Chính họ, những người nông dân thầm lặng đã gánh vác trọng trách lớn lao của dân tộc và cũng không ai khác ngoài họ trở thành động lực phát triển đất nước. Không chỉ thời chiến, thời bình thì vị trí của người nông dân đối với tiến hình hội nhập của đất nước cũng giữ một phần rất quan trọng. Nói như cách nói của Nguyễn Khoa Điềm đất nước này là đất nước của nhân dân
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)