Phân tích “Bài thơ tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật – Văn Mẫu 9 HK1
“Kẻ dọc trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai’’
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua mà mỗi lần đọc lại câu thơ vẫn còn nghe đâu đó bước chân hào hùng của người chiến sĩ vượt qua những chặng đường rừng để mở con đường cho đất nước đi đến tương lai. Hình ảnh của những người lính cụ Hồ hay những cô gái thanh niên xung phong là một trong những hình ảnh đẹp nhất trong thời kháng chiến chống Mỹ. Phạm Tiến Duật – là người con trưởng thành trên mái trường Xã hội chủ nghĩa , một thi sĩ của núi rừng Trường Sơn huyền thoại ông đã mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra khắp các nẻo đường chiến đấu. Điều đó kết hợp với giọng thơ sôi nổi, trẻ trung và tràn đầy sức sống đã tạo nên “Bài thơ về tiểu đội xe không kính’’ đầy tinh nghịch và độc đáo về những chiếc xe không có kính. Qua bài thơ đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người lính trên tuyến đường Trường Sơn.
Bài thơ được viết năm 1969, trong thời kỳ cuộc chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, lấy cảm hứng từ hiện thực những chiếc xe tải ngày đêm vận chuyển nhu yếu phẩm chi viện cho miền Nam ruột thịt trên tuyến đường Trường Sơn bị bom giật, bom rung khiến cho xe không còn giữ được nguyên trạng ban đầu. Bài thơ đã nhẹ nhàng ghi dấu vẻ đẹp người lính là vẻ đẹp ở tư thế của người ra trận đầy khốc liệt trộn không lẫn của tuyến đường huyết mạch nối hai miền Nam, Bắc.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không có kính. Đây là hình ảnh độc đáo vì nó vừa chân thật vừa mới lạ. Nó hoàn toàn khác với hình ảnh xe cộ trong thơ ca trước đó. Tất cả đều được mĩ lệ hóa và tượng trưng. Thế nhưng, Phạm Tiến Duật lại viết về chiếc xe với sự chân thật vốn có của nó.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi’’
Chỉ với hai câu thơ đơn giản đã gợi cho người đọc hình ảnh của những chiếc xe không có kính, đồng thời giúp người đọc hình dung được sự ác liệt, tàn khốc của chiến tranh đã tàn phá những chiếc xe ban đầu vốn tốt trở nên biến dạng. “Bon giật, bom rung” nên kính vỡ đi, đó là lẽ hiển nhiên. Trong mưa bom bão đạn thì ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên gang tấc huống chi những chuyện hư hỏng thường tình. Chỉ cần một quả bom ném xuống ngay trên đường người lính lái xe hoặc vài ba mảnh đạn văng ra trúng vào chiếc xe thì kính sẽ vỡ, xe sẽ xước, thậm chí là người lái xe cũng bị thương. Không phải ngẫu nhiên mà tuyến đường trường Sơn lại là được gọi là con đường máu, bởi lẽ nó là con đường quan trọng để miền Bắc cung cấp thuốc men, đạn dược, lương thực cho miền Nam, bởi lẽ vượt qua con đường này là tiếp thêm một chút sức mạnh cho ngày miền Nam giải phóng và tiến gần hơn nữa niềm hy vọng thống nhất nước nhà. Cũng giống như người lính, con đường oằn mình hứng những trận mưa bom liên tục bị ném xuống. Nhìn lại khoảnh khắc lịch sự bi hùng ấy để thấy rằng trong những năm chiến đấu, Mỹ đã ném trên tuyến đường này hàng triệu tấn bom để cắt đứt mọi liên lạc, mọi sự tiếp tế của miền Bắc. Vậy mà trên con đường ấy, mỗi ngày vẫn những chiếc xe không có kính bon bon thẳng tiến. Xe và người lính cứ như bước ra từ trong khói lửa. Và từ trong những đau thương, sinh ra bao thế hệ anh hùng.
Xe không còn kính chắn gió, không có mui xe, thùng xe bị xước. Phải có một tâm hồn nhạy cảm , tinh tế và gắn bó với cuộc chiến thì nhà thơ mới phát hiện ra những vật tầm thường trong chiến tranh trở thành một niềm thơ. Thế nên hình ảnh những chiếc xe không kính tự nhiên bước vào trong thơ như một hình tượng sống động đầy oanh liệt nhưng cũng đầy gian khổ. Cái hay của hình ảnh thơ là những chiếc xe không có kính được tả thực, không tô vẽ, không cường điệu. Có như thế, hình ảnh người lính lái xe mới hiện lên vừa hiên ngang, khí khách, vừa ung dung, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ.
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Những câu thơ nhanh gấp như chính thái độ khẩn trương của người lính lái xe. Dù khẩn trương nhưng không phải quá vội vàng. Nhịp thơ vẫn đều đặn như vòng xe quay để những chuyến đi không chùn bước. Hiện thực bên ngoài có thế nào thì người lính lái xe vẫn trong trạng thái hết sức ung dung. “Ung dung buồng lái ta ngồi”.
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ đó xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng. Ung dung nhưng không hề lơ là, người lính lái xe vẫn tập trung cao độ với mọi thứ bên ngoài để qua câu thơ tiếp theo chúng ta thấy được điều đó. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Câu thơ có sáu từ nhưng đã có đến ba từ “nhìn”. Nhìn ở đây chính là công việc bắt buộc của người lái xe. Phải quan sát, phải cẩn trọng và tinh tế nhận ra những vật cản trên đường đi mới có thể có một chuyến vận tải an toàn. Lái xe đã khó nay lại phải còn đối mặt với bom đạn bất chợt đến không hề báo trước thì làm sao các anh chiến sĩ lái xe lại có thể lơ là trong bất cứ giây phút nào. Thế nên điệp từ nhìn đã làm nổi bật vẻ đẹp từ cách quan sát của các anh. Không chỉ thế câu thơ còn bộc lộ được mối quan hệ gắn bó của người lính và tuyến đường Trường Sơn hùng vĩ. Cái nhìn ấy là cái nhìn có chủ đích. Các anh như muốn cất giữ vào lòng từng gốc cây, từng mỏm đá, từng đèo dốc của con đường. Vòm trời ấy, màu xanh ấy sẽ theo bước chân anh như một người bạn đường chung thủy. “Nhìn đất” để biết mình phải vượt qua bao nhiêu bom đạn nữa, “nhìn trời” để thấy tâm hồn thêm yêu đời, thêm tự tin. Và “nhìn thẳng” để nhận ra con đường trước mắt mới là con đường sống. Anh là những người trẻ lớn lên trong chiến trận, nhìn thấy đất nước chia cắt, lòng không thể an bình. Đã là người Việt Nam mang dòng máu Việt thì dù Nam hay Bắc cũng là một nhà. Anh đi theo tiếng gọi của quê hương, lấy sức trai nối liền hai miền Nam Bắc, đó chính là “nhìn thẳng”, cái nhìn trung thành với quê hương, Cách Mạng.Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái.
Khi lái những chiếc xe không có kính đồng nghĩa với việc người lính phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Nhà thơ đã ghi nhận những bất lợi từ thiên nhiên thông qua các hình ảnh so sánh và điệp ngữ. Tất cả những vật, hình ảnh mà các chiến sĩ bắt gặp trên con đường hành quân đều thể hiện một cách thản nhiên giống như những gì bình thường xảy ra thường ngày. Đối với các anh chiến sĩ, việc gió vào xoa mắt đắng hay bụi phun tóc trắng, mưa tuôn ướt áo,…là những chuyện bình thường. Nhà thơ có cái nhìn rất thực, thực đến từng chi tiết. Những câu thơ sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm vô lăng mà lái. Đọc từng câu thơ chúng ta như choáng ngợp trước khung cảnh bên ngoài cứ lần lượt hiện lên qua lớp kính vỡ khi xe đang lái với tốc độ nhanh chóng mặt. Ngoài bom đạn thì tuyến đường Trường Sơn có có gió. Gió thốc từng cơn như hữu hình trước đôi mắt đã quá quen thuộc với những trở ngại trên đường. Gió thổi vào đôi mắt đã nhiều đêm thức trắng. Gió đâu chỉ biết gào thét bên ngoài mà nó còn như một bàn tay vô hình đến “xoa” đôi mắt đã thâm quầng của người lính. Hình ảnh thơ độc đáo này đã phần nào nói lên được sự gắn kết giữa thiên nhiên và con người đồng thời cũng bộc lộ được sự tinh tế của nhà thơ.
Đoạn thơ giàu sức liên tưởng thông qua hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường ấy chính là con đường vào miền Nam, con đường mà người lính phải vượt qua bao nhiêu trở ngại để tiếp tế đạn dược, lương thực cho tiền tuyến miền Nam. Không chỉ vậy, con đường ấy còn là hy vọng một ngày thống nhất. “Con đường chạy thẳng vào tim” chính là cách nói ẩn dụ về con đường cách mạng. Khi mà trái tim người lính luôn hướng về miền Nam thì có sá gì những khó khăn trở ngại. Người lính lái xe mỗi lúc hiện lên rõ nét. Chỉ với một điệp từ “nhìn” đã bộc lộ được sự kiên cường, thách thức trước mọi khó khăn . Hiên ngang , bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng . Cuộc chiến còn dài, thử thách vẫn còn đợi chờ anh phía trước nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn, bay bổng khi anh quan sát từ chiếc xe không kính để thấy “sao trời, cánh chim”…Nhịp thơ bỗng vui tươi, phơi phới như tâm trạng một con người làm chủ những chuyến đi, cảm thấy mọi thứ xung quanh mình đều là những niềm thơ.Nếu điệp ngữ “nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật tinh tế và lạc quan. Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, xao xuyến.
Hình tượng người lính lái xe trẻ trung, tinh nghịch tiếp tục được khắc họa cùng với những hệ lụy của chiếc xe không kính ở khổ thơ ba, bốn.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Câu thơ điệp cấu trúc “không có kính”, “ừ thì” là tiếng nói của người lính tự tin có chút ngang tàng, sự ngang tàng này xuất phát từ tuổi trẻ không ngại khó khăn, không sợ gian khổ. Thế mới nhận ra tâm hồn và tính cách của lứa tuổi đôi mươi vừa sôi nổi lại vừa nghịch ngợm. Những khó chịu khi không có kính với người lính chỉ là chút niềm vui trên đường dài để mà lấy đó làm nụ cười, làm động lực “Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Tiếng cười sảng khoái của các anh gợi cho chúng ta nhớ đến nụ cười buốt giá của anh bộ đội trong bài thơ “Đồng chí”, dù hoàn cảnh có chút khác biệt nhưng chung lại người lính thời đại nào cũng giữ cho mình sự lạc quan, bất chấp mọi thiếu thốn bên ngoài. Đấy chính là yếu tố cần phải có làm nên chất lính phong trần. Mưa tuôn mưa xối, ướt áo không cần thay cứ mặc kệ để gió lùa sẽ khô. Có lẽ ngoài gió thì đặc sản của Trường Sơn phải kể đến mưa và nắng. Đặc biệt là mưa. Mưa của rừng bất chợt chẳng báo trước mà đến như một vị khách không mời. Mưa từng cơn ào ào như thác đổ, cũng có khi mưa rỉ rả đêm ngày. Trong một bài thơ viết về hai dãy núi Trường Sơn, Phạm Tiến Duật cũng đã từng nhắc đến những cơn mưa không hẹn.
“Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.”
Hãy nhớ rằng họ là những thanh niên mang trong người bầu nhiệt huyết của tuổi hai mươi, lứa tuổi mà thời đại có qua đi thì chiến công vẫn là mãi mãi. Lứa tuổi ấy cho phép người lính nhìn mọi khó khăn chỉ là chút chuyện cỏn con. Vậy nên càng đọc câu thơ lại càng thấy thích thú. Giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đang cười đùa, tếu táo với nhau. Điều đó cũng dễ hiểu vì nhà thơ chính là một người lính. Mà người lính thì cũng là những con người bằng xương bằng thịt, biết yêu thương, thù hận, có cả chất lãng mạn,hào hoa nhưng cũng có cả sự trần trụi, thô ráp. Có lẽ thế mà những hình thơ đôi khi không được tạo nên bằng sự gọt dũa kỳ công mà chỉ xuất phát từ lời ăn tiếng nói “ừ thì”. Chính lối ngôn ngữ giản dị ấy đã tạo nên phong cách thơ Phạm Tiến Duật vừa hào hùng, phi thường cũng vừa mộc mạc, chân chất. Chỉ có như thế mới làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung mà sau này ta sẽ bắt gặp ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Câu thơ “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” có đến 6 thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan lẫn vào đó là niềm tin tưởng ở tương lai.
Sau những trận mưa bom bão đạn cùng những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, họ lại gặp nhau và bắt tay trong những phút dừng chân ngắn ngủi. Tình đồng chí, đồng đội của các anh đã thể hiện trong những giây phút như thế, họ gắn bó yêu thương nhau như những người trong gia đình.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Câu thơ “những chiếc xe từ trong bom rơi” cứ như một thước phim quay chậm về khoảnh khắc người lính bước ra từ trong đạn lửa. Phía sau anh là khoảng trời rực cháy mà kẻ thù đã dội bom phá nát một vùng đất vốn bình yên. Anh ngời sáng trong ánh lửa chớp lòa, gương mặt vẫn rạng rỡ, bước chân vẫn hiên ngang. Người anh hùng của chúng ta không xuất hiện với tấm chiến bào mà với chiếc xe đã hư hao khi vượt qua cái chết, hồi sinh từ trong cái chết. Không chỉ riêng anh, những người lính lái xe trên tuyến đường này đều là anh em, đồng đội, tuy không nhiều nhưng hợp lại vẫn thành một tiểu đội kiên cường.
Hình ảnh người lính lái xe đẹp hơn vì mang nhiều nét đẹp về tâm hồn và tình cảm. Cái bắt tay là biểu hiện đẹp đẽ của tình đồng chí. Hình ảnh “bắt tay qua ô cửa kính vỡ rồi”chính là tinh thần đoàn kết , đồng thời còn là lời động viên, nhắn nhủ hãy cùng nhau vượt qua khốn khó để đi đến thành công. Chặng đường phía trước còn dài, con đường người lính lái xe phải trải qua không phải dễ dàng. Dù thế nào hãy yên tâm vì hành trình của anh không đơn độc. Bên cạnh anh còn có anh em, đồng chí, còn có cả con đường ngày đêm thì thầm khúc ca hào hùng cổ vũ anh và ở phía trước còn có một miền Nam đang chờ đợi. Cái bắt tay ấy cũng giống như cái nắm tay của những người lính trong đêm rừng đứng cạnh bên nhau chờ giặc “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, đong đầy tình cảm keo sơn của những người cùng chung lý tưởng.
Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nó còn là một sáng tạo độc đáo của người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến. Để tránh máy may của địch phát hiện từ trên cao, loại bếp này được xây để cho khói loãng ra xung quanh, bám vào bếp mà không bay lên. Đâu chỉ có thế, bếp hoàng cầm còn là tín hiệu của sự sum vầy, hội ngộ sau chặng đường hành quân vất vả. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là một gia đình ấm cúng, chan chứa yêu thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra một khái niệm gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn cho một gia đình. Cũng phải thôi, với những người lính xa nhà, xa quên thì đồng đội mình chính là người thân, chiếc xe và cả rừng Trường Sơn chính là nhà. Trong những giây phút hiếm hoi ngồi lại bên nhau, người lính sẻ chia nhau từng bát cơm, miếng lương khô, kể cho nhau nghe chuyện đường dài, chuyện gia đình. Có bức thư nhà cũng cùng nhau đọc để đỡ nhớ những người thân. Và trên con đường gập ghềnh ấy, các anh mắc vội chiếc võng để ngả lưng. Người biết hát sẽ hát vài bài cách mạng, người có đàn sẽ dạo khúc nhạc quê hương.
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.”
(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây – Phạm Tiến Duật)
Phút giây thư giãn ấy sẽ là kỷ niệm đáng nhớ của cuộc đời người lính, sẽ là động lực để các anh tiếp tục hành quân “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Tác giả đã sử dụng cụm từ “trời xanh thêm” để cho thấy lòng người luôn chứa chan hy vọng lạc quan dào dạt, các anh luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng . Câu thơ ấy đã mang một chất thơ bay bổng , mang một tâm hồn lãng mạn , mộng mơ. Hình ảnh “trời xanh” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó không chỉ biểu tượng cho sự sống mà còn biểu tượng cho tự do, hòa bình, chứa chan hy vọng chiến công lớn đang chờ phía trước. Trời xanh là của hòa bình và người lính có nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ nền hòa bình ấy. Với các anh, đây không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là tình yêu, thái độ sống đúng đắn, hợp thời đại.
Lòng yêu nước là động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam. Khổ thơ cuối đã làm nổi bật sức ác liệt của chiến tranh và sự tàn phá của bom đạn , đồng thời nhấn mạnh ý chí chiến đấu kiên cường, tình yêu nước sâu sắc.
“Không có kính, rồi xe không có đèn ,
Không có mui xe, thùng xe có xước ,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Vẫn chính là giọng thơ mộc mạc, giản dị nhưng điều đặc biệt là các dòng thơ đã dựng lại hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, đầy bất ngờ. Hai câu đầu chính là sự mất mát được Phạm Tiến Duật khắc họa qua những chi tiết “không kính”, “không đèn” , “không mui”, “thùng xe có xước”. Tuy vậy nhưng xe vẫn chạy lên phía trước, vẫn tiến tới miền Nam thân yêu . Tác giả đã lấy cái không để nói cái có. Dù không kính, không có mui, thậm chí không có đèn thì cũng không quá quan trọng bởi vì người lính đã có sẵn tinh thần lạc quan, thái độ kiên quyết đến cùng. Chính cái có ấy mới là tất cả, quyết định cho sự thành bại của cuộc chiến. Điều đó không thể chối cãi được. Nhìn lại những năm tháng đầy gian khổ khi mà chúng ta tay không tấc sắt vẫn đánh đuổi được kẻ thù hung bạo số một thì suy cho cùng yếu tố hàng đầu để làm nên chất lính không phải là vũ khí tối tân mà là tinh thần, lòng yêu nước. Hình ảnh “trái tim” chính là tình yêu và trách nhiệm lớn lao của những người lính đối với dân tộc. Bằng biện pháp hoán dụ, tác giả đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng. Cuộc chiến tranh càn quét của kẻ thù có ác liệt đến mấy, thì ý chí chiến đấu quên mình vì tiền tuyến của các anh bộ đội vẫn không hề nao núng: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh “chỉ cần trong xe có một trái tim” đã thay cho tấm lòng của tác giả nói hộ được ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Trái tim đó chính là tình yêu, là tuổi trẻ, là lý tưởng và nhiệt huyết của người chiến sĩ lái xe, vượt chặng đường dài để nối liền hai miền Tổ quốc. Trái tim ấy nằm trong lồng ngực nóng đã tôi luyện lòng kiên trung ngày một vững bền.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo về những chiếc xe không kính, và khắc họa sâu sắc hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn mưa bom bão đạn. Bằng những hình ảnh thơ đa dạng , ngôn ngữ tự nhiên , tác giả đã làm nổi bật tư thế ung dung, lạc quan bất chấp nguy hiểm của các anh. Có thể nói hình ảnh “trong xe có một trái tim” là chi tiết đắt giá nhất làm nên cái hồn của bài thơ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ . Những người lính cụ Hồ chính là tấm gương để thế hệ trẻ noi theo mà học tập xây dựng đất nước. Cuộc chiến đã khép lại mấy mươi năm , con đường Trường Sơn giờ đã thành con đường huyền thoại. Nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ tôi lại xúc động như nhận ra gương mặt ông cha mình, những người đã từng có một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết. Để thấy rằng thế hệ chúng tôi hôm nay phải biết trân trọng cuộc sống yên bình và giữ được ngọn lửa lạc quan, lý tưởng sáng ngời mà thế hệ cha anh truyền lại.