Cảm nhận bức tranh phong cảnh Việt Bắc – bức tranh tứ bình trong bài thơ (câu 43 đến câu 52) – Tố Hữu – Văn mẫu 12
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Đất và con người tưởng chừng khác biệt nhau giữa một bên tĩnh tại muôn đời và một bên là đầy biến động, hữu hạn. Vậy mà vô hình chung lại gắn bó với nhau bằng một sợi dây vô hình mà dẻo dai, bền chặt. “Đất hoá tâm hồn” hay tâm hồn ta hoá đất. Dẫu thế nào thì đất và người cũng đã hòa làm một trong suốt khoảng thời gian dài mười lăm năm thiết tha, nồng đượm. Tố Hữu đã để nỗi nhớ đất và người xuyên suốt hành trình ra đi của người chiến sĩ cách mạng giã từ chiến khu Việt Bắc về xuôi. Khúc âm vang “Việt Bắc” như lời tiễn dặn chân thành mà người ở lại nhắn nhủ cùng người ra đi và cũng là lời khẳng định mà người ra đi muốn đáp lại. Tấm lòng thuỷ chung son sắt của người ra đi ẩn vào trong nỗi nhớ phong cảnh Việt Bắc nên thơ thông qua 10 câu thơ vẽ nên bức tranh tứ bình đặc sắc.
“Ta về mình có nhớ ta
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Theo lời nhận xét của giáo sư Trần Đình Sử thì Tố Hữu chính là “đỉnh cao thơ trữ tình chính trị”. Theo chân những sáng tác của Tố Hữu ta nhìn thấy mỗi chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Dõi theo từng chặng đường cách mạng ta lại tìm thấy những vần thơ bát ngát tình của chàng trai trẻ đã được ánh sáng thời đại chiếu qua tim “Từ ấy”. Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đã tạc thế đứng vững chãi của thời đại vào trong những trang thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Và tháng mười năm đó, cơ quan trung ương Đảng cùng chính phủ rời Việt Bắc về lại Hà Nội. Trước phút giây thiêng liêng của một cuộc chia tay, Tố Hữu đã nghẹn ngào trào dâng nỗi nhớ “Việt Bắc”.
Từ những ngày đầu tiên sau 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác Hồ về nước chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng. Nơi đây đã trở thành cái nôi cách mạng, cội nguồn của những ân nghĩa, thuỷ chung mà nhân dân đối với cụ Hồ. Vùng chiến khu oai hùng Việt Bắc cũng là nơi ghi dấu tình cảm quân dân chân thành, chan chứa. Một củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, mảnh chăn sui cùng đắp để qua cái giá lạnh đêm trường. Mười lăm năm kháng chiến chống Pháp cũng là mười lăm năm làm nên lịch sử dân tộc, lịch của một thời đại huy hoàng. Vậy nên chẳng ai có thể cầm lòng trước cảnh chia ly. Bao trùm cả bài thơ là cảm hứng sử thi và khuynh hướng lãng mạn được chi phối bởi các yếu tố lịch sử, thời đại, chất anh hùng ca và vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc.Vẻ đẹp ấy vừa dung dị, đời thường vừa mang tính tượng trưng và luôn vận động hướng về tương lai dân tộc. Vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được khắc họa qua bốn mùa mà mỗi mùa là một nét độc đáo riêng, trong đó không thể thiếu vắng sự sống của con người. Vậy nên có thể khẳng định bức tranh tứ bình được tạo nên do sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người, giữa con người và con người. Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi với cấu trúc quen thuộc “mình – ta” chi phối tình cảm của cả bài thơ.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Để trả lời cho những câu hỏi dồn dập chất chứa ân tình của người ở lại “Mình về mình có nhớ ta”, “mình về mình có nhớ không”, người ra đi đã dùng một câu hỏi tu từ tương tự “ta về mình có nhớ ta” không phải mục đích để ướm hỏi cho tường tận tấm chân tình của người ở lại mà là khẳng định lòng ta cũng nhớ mình như mình đã nhớ ta. Lối đối đáp kết hợp với đại từ nhân xưng đa nghĩa“mình – ta” như một nhịp cầu nối hai bờ mà ở đó một bờ là tấm lòng nhân dân Việt Bắc còn bờ kia là trái tim thuỷ chung của cán bộ chiến sĩ. Tuy có khác nhau về trong chuyến hành trình kẻ đi, người ở nhưng vẫn là một tấc lòng lưu luyến, bịn rịn buổi chia tay. Thế nên đại từ “mình – ta” rất khéo để diễn tả mối quan hệ khó tách rời này. “Ta” là bản thân người ra đi nhưng cũng có khi “ta” là “chúng ta”, có cả “mình” trong ấy. “Mình” là đối phương người khiến ta nhớ nhưng cũng chính là “ta” vì trong “ta” lại có “mình”. Đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ là đây, sự kế tục văn học dân gian cũng là đây.
Trong một cặp lục bát có hai từ “về” được lặp lại cùng với “ta”. Bên cạnh cặp từ “mình – ta” nổi bật với vai trò chủ thể thì cặp từ “đi – về” cũng là một phạm trù làm nên tư tưởng của bài thơ. Tuy bên ngoài có trái ngược nhau nhưng thực ra đặt trong hành trình của cán bộ chiến sĩ thì “đi” cũng là “về”. Ngày rời Việt Bắc để trở lại miền xuôi là ngày cán bộ cách mạng tìm về với đất cố đô. “Đi – về” không còn mang ý nghĩa độc tôn một hướng mà bị xoá nhoà bởi tình cảm của người ra đi từ lâu đã xem Việt Bắc là thủ đô ngàn gió. Bởi thế nên, khi từ “về” xuất hiện trong câu mở bức tranh Việt Bắc gợi cho chúng ta cảm giác không gì chia cắt được tâm tư hai con người đang hướng về nhau, chung đường, chung lối mộng. Cũng như “ta” luôn nhớ về cảnh và người Việt Bắc.
Hai chữ “ta” lặp lại ở hai đầu một câu thơ và ở giữa là “mình” và “nhớ”. Phải chăng ấy là lời nhấn mạnh đinh ninh rằng dù ta có về thì ta vẫn còn ở lại. Ở lại trong nỗi nhớ của “ta” về “mình” và trong cả nỗi nhớ của “mình” đến “ta”. Dù “ta” có về thì vẫn ở lại trong “những hoa cùng người”. “Hoa” là những hoa lau phất phơ màu xám, là những hoa trắng bạt ngàn nơi mưa nguồn suối lũ. Hoa còn là biểu tượng cho thiên nhiên hoang dã đầy sức sống của núi rừng Việt Bắc. Vậy nên khi nhớ hoa có nghĩa là nhớ cả đất trời, từng rừng cây, núi đá, từng dòng suối, con sông. Hơn thế nữa, nhớ Việt Bắc còn là nỗi nhớ “người” vì chỉ có tình người mới làm nên sự đậm đà, bền chặt. Hai câu thơ đầu đoạn đã hoàn thành nhiệm vụ làm nền cho bốn bức tranh phong cảnh đặt cạnh nhau mà ở đó chan chứa nỗi nhớ đất và người.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Bốn cặp thơ lục bát mở ra nỗi nhớ của “ta” tràn ngập không gian, xâm chiếm cả thời gian. Việt Bắc không chỉ là bấy nhiêu cảnh, bấy nhiêu vật, bấy nhiêu người mà còn là sự chuyển mình theo từng khoảnh khắc trong năm. Mỗi mùa đều là mùa của nhung nhớ, mùa của những kỷ niệm. Thế nên thứ tự bốn mùa trong năm không theo xuân, hạ, thu, đông mà bắt đầu bằng mùa đông rồi đến xuân, hạ, thu. Để lý giải cho sự lựa chọn này cũng không phải là không có lý do. Bài thơ ra đời tháng 10 nghĩa là lúc núi rừng Việt Bắc vào đông. Mùa đông mở đầu cho vòng tuần hoàn thời gian là thuận theo thời điểm hiện tại, lấy hiện tại làm cột mốc. Xuân, hạ, thu rồi lại đến đông, dòng thời gian luân chuyển không ngừng nghỉ là lời khẳng định cho sự sống bất diệt của cảnh vật và con người nơi Việt Bắc.
Mùa đông hiện lên trong nỗi nhớ thi nhân là một mùa đông mới mẻ, rạo rực sức sống trong sắc đỏ của hoa chuối rừng.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
Không còn cái âm u, cô tịch nơi rừng núi vào mùa lạnh giá hay cái sương mù mịt, mưa nguồn suối lũ, hình ảnh mà người ra đi nhớ về mùa đông bừng sáng trong ngọn lửa bập bùng không bao giờ tắt của hoa chuối “đỏ tươi”. Từ ghép này mang sự tuyệt đối của sắc đỏ, một màu đỏ đẹp, sắc nét, ưa nhìn mà trong ấy có cả sự mơn mởn của hoa chuối trong độ căng tràn bung nở. Màu đỏ là điểm nhấn mạnh mẽ trên cái nền xanh của rừng, của lá. Hai sắc màu tương phản này bên cạnh nhau làm nổi bật cho nhau để xanh càng xanh của nhựa sống từ những chồi non, lộc biếc và đỏ càng thêm đỏ niềm tin, hy vọng, sự ấm áp trong cái nhìn về phía loài cây hoang dại mọc lên từ đất, đá.
Không chỉ riêng cặp câu thơ này, bốn cặp câu thơ trong bốn bức tranh đều có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Câu thơ đầu tiên là tả cảnh với màu sắc, âm thanh, đường nét thuộc về thiên nhiên. Câu thơ bát thứ hai sẽ là sự xuất hiện của con người. Dẫu con người được đặc tả bằng vài ba đường nét nhưng trong cảm hứng của thi nhân thì con người mới thật sự là chủ nhân của bức tranh phong cảnh. Không có con người thì sẽ mất đi linh hồn của thiên nhiên. Bóng dáng con người thấp thoáng với “dao gài thắt lưng”, ấy là con người của lao động, con người khoẻ khoắn, mạnh mẽ làm chủ sự hùng vĩ, bao la của núi rừng. Sở dĩ nhìn thấy được “dao cài thắt lưng” là do “nắng ánh” chiếu vào. “Nắng ánh” cách biến tấu độc đáo của ngôn ngữ tiếng Việt làm giàu thêm những sắc thái khác nhau của sự vật. Nếu “ánh nắng” là danh từ thì khi chuyển thành “nắng ánh” lại là động từ. Chỉ “nắng ánh” mới diễn tả được sự rực rỡ của cái nắng tinh khôi, trong lành xua tan bầu đông lạnh buốt. Nắng lóe lên từ con dao gài thắt lưng như điểm hội tụ của sức sống mạnh mẽ bắt nguồn từ lao động. Ánh sáng ấy đủ bừng lên những ước mơ lấp lánh trong đôi mắt khát khao cuộc sống thanh bình, ấm no của người dân Việt Bắc. Những nét tinh tế trong cách lựa chọn hình ảnh, sử dụng từ đã tạo cho bức tranh mùa đông đầu tiên một sinh khí vui tươi, ấm cúng như cái nhìn đầu tiên thân tình của cán bộ chiến sĩ vừa đặt chân đến Việt Bắc.
Hết đông rồi lại đến xuân, khi cánh hoa mận cuối cùng rụng xuống cũng là lúc hoa mơ trắng xóa bầu trời Việt Bắc. Mùa xuân đến trên những rẻo cao cũng căng tràn nhựa sống và vui một niềm vui hồ hởi, trong lành với màu trắng tinh khôi.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Màu trắng của hoa mơ rất dễ làm cho người ta xúc động, nhất là khi cái sắc trắng kia nhuộm một nỗi xa cách, chia lìa.
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi”
(Cô hái mơ – Nguyễn Bính)
Tuy cũng là buổi chia ly, cũng là phút giây lưu luyến nhưng màu trắng của hoa mơ trong bức tranh xuân không chất chất nỗi niềm ưu hoài mà là một niềm vui lan tỏa theo từng cánh mơ bung xòe trong gió. Xuân nơi đại ngàn gió núi không vàng rực bởi hoa mai cũng không thắm sắc đào hồng mà lại “trắng rừng” cùng sự thơ mộng của mơ rừng. Ngập đáy mắt thi nhân là không gian của một màu trắng bình yên, màu trắng dung dị và lãng mạn. Sắc trắng này không hề giống với màu áo trắng của cô gái Huế trong tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, xa cách, chia lìa mà lại dấy lên lòng người một cảm giác rung động đến khó tả. Phải chăng chính sắc trắng này đã làm nên những khoảnh khắc trong ngần đến kỳ lạ của một những vần thơ chính trị mà vẫn nồng thắm trữ tình. Con người hiện lên trên cảnh sắc mơ mộng mùa xuân vẫn là con người lao động nhưng đã rõ ràng, cụ thể hơn hình bóng thấp thoáng ở bức tranh đầu. “Người đan nón chuốt từng sợi giang”, người tuy có say sưa với rừng mơ trắng xóa nhưng vẫn không quên công việc đan nón. Từng động tác hiện lên qua động từ “chuốt”vừa thể hiện đặc thù công việc đan nón vừa diễn tả sự cẩn trọng, khéo léo, tỉ mỉ của con người. Trong từng cử chỉ, hành động là cả một tấm lòng nâng niu, trân trọng, nguyện đem mùa xuân cá nhân để góp thêm sắc xuân tươi thắm cho quê hương mình.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi đôi mươi
Dù là khi tóc bạc”
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
Đất trời Việt Bắc còn được mở ra trong mùa hạ tươi vui, sôi động cùng tiếng ve ngân vang và màu vàng của rừng phách đầy ấn tượng.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức họa mùa hè không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn chiếm cả tâm hồn con người thông qua sự rung động của thính giác. Âm thanh tiếng ve phải chăng là một đặc ân của tạo hoá dành cho mùa hè nhiều nắng mà cũng đầy mưa giăng. Ve kêu suốt mùa lá thức, vang động triền miên khắp từng ngõ ngách. Âm thanh chẳng những làm náo động không gian mà như khiến không gian dày thêm, sâu thêm và rộng lớn thêm. Câu thơ tạo nên sự kỳ vĩ của núi rừng khi cảnh vật ngập tràn một màu vàng của đầu mùa hạ được tạo ra từ loại cây gỗ quen thuộc của núi cao. Cây phách cũng như những loại cây gắn bó với Việt Bắc, đem sắc xanh của mình làm thành màu của non xanh. Đến đầu hạ, lá xanh chuyển sang màu vàng đồng loạt và thời gian cũng chỉ ít ngày. Vậy nên cái khoảnh khắc rừng phách đổ vàng được nhà thơ chọn làm thời điểm tiêu biểu của mùa hè cũng là cái nhìn tinh tế, nhạy cảm trước những biến chuyển của thiên nhiên mà chỉ những ai gắn bó, hiểu rõ và yêu quý nó mới có thể nắm bắt được.
Cái hay của câu thơ còn nằm ở động từ “đổ”, “rừng phách đổ vàng” gắn với tiếng ve kêu đầu hạ như một cặp đôi song hành tạo cảm giác rằng sự chuyển mình của những chiếc lá xanh sang màu vàng là do ve thúc giục. Âm thanh của loài côn trùng này cũng như chiếc đồng hồ thời gian réo rắt không ngừng vận động để từ đó rừng “đổ” màu vàng. Cả bước đi của thời gian gom lại một từ “đổ”, sự chuyển đổi nhanh chóng, bất ngờ mang cả tâm tư rạo rực vui mừng của thi nhân khi đứng trước đất trời.
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
(Thơ duyên – Xuân Diệu)
Cũng là ngần ấy câu chữ nhưng qua khối óc người nghệ sĩ bỗng trở thành một kỳ quan ngôn ngữ khi ngôn ngữ không phải được thốt ra bằng âm thanh, chi phối ý nghĩ những khái niệm mà còn hiển hiện lên qua đường nét, hình khối của hội hoạ. Nói cách khác, Tố Hữu đã vẽ tranh bằng ngôn ngữ. Không chỉ một bức vẽ mênh mông của lá vàng mà còn có cả hình ảnh con người “cô em gái hái măng một mình”. Vẫn là con người của lao động nhưng qua mỗi bức tranh hình ảnh ấy lại hiện lên rõ nét thêm. Không phải là hình dáng con người qua ánh dao gài hay động tác đan nón, chuốt giang, con người trong bức tranh hè cụ thể là người con gái, một cô em gái hái măng một mình. Cách gọi “cô em gái” như tiếng gọi thân thương, trìu mến của người ra đi dành cho người ở lại. Phải chăng trong chính cách gọi ấy hé lộ nguyên nhân vì sao cô hái măng một mình. Không còn người chiến sĩ cạnh bên cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng lên rẫy, vào rừng thử hỏi người ở lại không chạnh lòng sao được. Rồi mai đây “trám bùi để rụng, măng mai để già” cũng vì người đã về xuôi.
Nỗi nhớ của nhà thơ vang lên thành một điệp khúc vang động kéo dài từ đông sang xuân rồi đến hạ về lại mùa thu. Nhớ mùa thu Việt Bắc là nhớ đến ánh trăng và tiếng hát. Từ hình ảnh, âm thanh quen thuộc gắn với thiên nhiên và sinh hoạt tinh thần của con người, ánh trăng và tiếng hát mượn đôi cánh trữ tình của thơ ca cách mạng mà trở thành hình tượng giàu sức biểu cảm.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
“Rừng thu” là sự kết hợp cả không gian rộng lớn của núi rừng vào trong khoảnh khắc mùa thu đang đến. Không gian và thời gian hòa quyện vào thành một, tiếp sức cho nhau, làm nhau bừng sáng trong tiếng hát ân tình của người Việt Bắc. Ánh trăng chiếu trên bầu trời quê hương bao giờ cũng mang khát vọng ấm no, hạnh phúc. Ánh trăng năm nào soi đôi bạn tri kỷ kề vai sát cánh “đầu súng trăng treo”. Trăng bầu bạn bên người lãnh tụ “trăng vào cửa sổ đòi thơ”. Trăng lồng lộng quyện vào bóng hoa để hoa in ngần mặt đất “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng trong thơ Tố Hữu có cả sự dịu dàng của tình đồng chí, sự nồng thắm của tình quân dân, cả vẻ đẹp lý tưởng của người chiến sĩ cách mạng kiên trung và cả ước mơ cháy bỏng hướng đến ngày bình yên sẽ đến trên quê hương anh dũng.
Một đêm trăng đẹp lại được nghe tiếng hát văng vẳng của “ai” thì thử hỏi làm sao tâm tư không khỏi xúc động. Tiếng hát từ một cô sơn nữ có chất giọng ngọt ngào, trìu mến hay vọng lại từ âm thanh của núi rừng, của tiếng suối róc rách và tiếng gió đại ngàn. “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” (Cảnh khuya – Hồ Chí Minh) Đại từ phiếm chỉ “ai” không định danh cụ thể người nào nhưng cũng đã khắc sâu vào tâm tưởng của người ra đi về một thanh âm trong trẻo, có sức lay động tâm tư và bám riết nỗi nhớ. Phải chăng khúc hát “ân tình thuỷ chung” và ánh trăng là một, gợi về những tháng ngày gian khổ đã trải qua, mở ra những ngày tháng tươi đẹp sắp tới và nhắc nhở các anh chiến sĩ đừng bao giờ quên nguồn cội, quên mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
Bốn bức tranh phong cảnh là sự vận thời gian không ngừng mà mở đầu bằng mùa đông và kết thúc bằng ánh trăng hoà bình của mùa thu trong xanh. Sự vận động này gợi mở một chiều sâu liên tưởng. Cách mạng ta, nhân dân đã qua rồi những màu đông cuộn trào sức sống, những mùa đông đợi chờ. Và mùa thu đã đến, mùa thu lịch sử ngày Cách mạng tháng Tám thành công đã trở thành biểu tượng cho những mùa thu hoà bình, cho khát vọng được sống tự do khi bầu trời trên đầu xanh màu hy vọng và đất dưới chân rộng mở chan hòa. Kết thúc một chặng đường đấu tranh chống Pháp, niềm tin vào ngày mai tươi sáng khi mà đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Nam Bắc chung nhà, xuôi ngược chẳng còn ranh giới cắt chia.
Đoạn thơ đã bộc lộ tài năng nghệ thuật điêu luyện của Tố Hữu, ở đó phảng phất âm hưởng của những bài ca dao ngọt ngào, sâu lắng qua lối đối đáp “mình – ta”. Không chỉ thế bức tranh tứ bình còn thành công bởi sự phối màu, phối âm, đường nét trong bức hoạ đều tự nhiên, hợp lý. Khép lại đoạn thơ nhưng lại mở ra trong tâm trí người đọc một vùng đất anh hùng biết mấy mà cũng xinh tươi biết mấy. Bức tranh phong cảnh hài hòa giữa thiên nhiên và con người như mối liên hệ máu thịt giữa nhân dân Việt Bắc và núi rừng cũng là lòng yêu mến, biết ơn vô hạn của người ra đi đối với đất và người, với những ân tình khắc sâu vào đá núi.
Bản anh hùng ca thời đại oanh liệt đã trở thành bất tử như sự bất tử của tình cảm nhân dân dành cho cách mạng, dành cho cụ Hồ và sự bất tử của những chiến công vang động mãi sau này. Khúc ca Việt Bắc nối kết giữa miền xuôi miền ngược, giữa người ra đi, người ở lại và kết nối tình cảm giữa những con người có chung nguồn cội. Việt Bắc nhắc nhở thế hệ chúng ta hôm nay hãy trân trọng những giá trị hiện tại, đừng bao giờ quên đi sự hy sinh, ân nghĩa mà người đi trước đã để lại. Và hơn thế nữa cần gánh vác trên vai mình trách nhiệm dựng xây tổ quốc.