Cảm nhận về hình tượng chuyến tàu hy vọng đi qua phố huyện trong đêm và niềm mơ ước, khát vọng cháy bỏng của con người nơi phố huyện – truyện ngắn Hai đứa trẻ – Thạch Lam – Văn mẫu 11
Nhà văn là người đem khí giới thanh cao của mình để đấu tranh vì một thế giới thanh bình, tự do, bác ái. Đâu chỉ hướng ngòi bút đến những điều lớn lao, nhà văn còn là người lắng nghe và nói hộ nỗi buồn của một con chim, chiếc lá. Và đặc biệt nhà văn dùng cái tâm của mình đặt giữa nỗi buồn của những kiếp người đau khổ. Cái tâm ấy một nhà văn xuất thân từ dòng văn chương lãng mạn như Thạch Lam lại trong sáng, long lanh đến lạ. Từ một truyện ngắn không cốt truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh đời sống của những phận đời le lói như ánh sáng hắt hiu nơi phố huyện nghèo. Điều đáng quý hơn cả là cách nhà văn để cho “chừng ấy người trong bóng tối” tìm được chút ánh sáng hy vọng từ chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.
Để viết lời tựa cho tập truyện Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam, nhà văn Khái Hưng có viết: “Ở mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói, nói một cách giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của tác giả và của độc giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tưởng, vì có cái ta cảm thấy mà không thể dùng tư tưởng để mô tả cảm giác của ta.” Lời nhận xét của một người anh trong cùng nhóm Tự lực văn đoàn đã bộc lộ đúng cái hồn cốt của văn phong Thạch Lam. Truyện ngắn không nặng về cốt truyện, không thiên về tình tiết và độ gay cấn mà dồn vào cảm giác. Đọc từng trang văn của Thạch Lam ta nghe như thấm thía cái cảm giác trong ngần vừa bước ra khỏi sợi dây rung cảm của nhà văn và bắt nhịp vào sợi dây đồng cảm của độc giả.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ rút ra từ tập Nắng trong vườn (1938) lấy cảm hứng từ khoảng đời cơ cực của chính nhà văn và chị mình thời thơ ấu.Cái hay của truyện ngắn Hai đứa trẻ được tạo ra bởi những câu văn như ru, như êm dịu dẫn dắt tâm hồn vào cuộc đời thực, có những con người thực đang chờ đợi được sự giao cảm và thấu hiểu. Những cuộc đời như hai chị em Liên, An, mẹ con chị Tí, vợ chồng bác Xẩm, bác Siêu, bà cụ Thi…lần lượt hiển hiện lên trên nền bức tranh phố huyện nhập nhoạng giữa ánh sáng và bóng tối mà bóng tối giữ thế thượng phong. Toàn cảnh phố huyện chật hẹp được cảm nhận qua cái nhìn đầy tâm trạng của chị Liên, cũng là nhân vật chính trong truyện ngắn. Dòng thời gian vật lý chảy chung dòng thời gian tâm lý để bức tranh phố huyện từ chiều tàn đến nửa đêm mở ra theo câu chuyện đời của hai nhân vật Liên , An.
Hai chị em Liên, An đã từng có những ngày mơ mộng bên gia đình ở Hà Nội phồn hoa. Vì gia cảnh túng kiệt nên hai đứa trẻ phải theo mẹ về ở phố huyện nghèo. Hai chị em trông coi một cửa tiệm tạp hoá bé xíu gần ga tàu. Cũng ở đó bao nhiêu số phận hẩm hiu, mỗi người một cảnh, mỗi người một nét vẽ để bức tranh hiện thực cuộc đời hiện ra đáng thương. Những đứa trẻ con nhà nghèo bám víu vào vài ba thứ sót lại của một buổi chợ tàn “Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Mẹ con chị Tí trông chờ vào hàng nước cỏn con, đơn sơ mà vẫn ế ẩm. Ngọn đèn lay lắt của chị không đủ sáng một vùng đất cát. Hai vợ chồng bác Xẩm với đứa con tội nghiệp thu đời mình trên manh chiếu rách cùng tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng. Tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên say không khiến bầu không gian phố huyện nới rộng ta mà dường như càng ngột ngạt hơn bởi nỗi bế tắc nén chặt trong những bước đi lảo đảo của bà. Đời bác Siêu thì có hơn gì cho dù bác có bán thứ quà xa xỉ đi nữa. Gánh nặng áo cơm đâu chỉ bóp nghẹt không khí vào buồng phổi của người lớn, cả hai đứa trẻ như Liên, An cũng vì nỗi lo miếng ăn mà đánh mất tuổi thơ vô tư. Nhất là chị Liên, cô chị có đôi mắt của một thế giới nội tâm bí ẩn đầy tình thương và sự tử tế. Cũng chị Liên, nhân vật duy nhất ý thức được đầy đủ, tinh tế nỗi buồn tẻ của mình.
Sự bế tắc tù túng của phố huyện len lỏi vào trong từng hơi thở đặc sệt bóng đêm tưởng chừng không có điểm vô cùng. Vậy mà họ vẫn đều đặn như một con ong chăm chỉ hoàn thành phần việc của mình từ khi chiều xuống đến lúc nửa đêm. Chị Tí vẫn chong đèn đợi khách, vợ chồng bác Xẩm lại trải manh chiếu rách, gánh phở bác Siêu vẫn kĩu kịt bước qua.”Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.” Điều họ trông đợi nhất cũng là tấm lòng ưu ái của nhà văn dành cho phận đời bé mọn không gì khác là chuyến tàu cuối cùng của đêm. Chuyến tàu xuất phát từ Hà Nội về ngang phố huyện nghèo. Chuyến tàu đêm là hoạt động cuối cùng của một ngày cũng sự chờ đợi cuối cùng trước khi khép lại bức tranh không quá nhiều ánh sáng.
Cuộc ghé thăm chóng vánh của chuyến tàu đêm được miêu tả theo trình từ thời gian trước, trong và sau khi đoàn tàu đi qua phố huyện. Chuyến tàu này vẫn đi ngang mỗi ngày lúc 9 giờ tối theo lộ trình khách quan được định sẵn. Tuy vậy qua cái nhìn chủ quan của nhà văn và cũng như sự mong đợi của “chừng ấy người”, con tàu qua phố huyện là việc nên làm, cần làm bởi nó đối với người dân phố huyện là cả một thói quen của cảm xúc và ước vọng. Con tàu chiếm lấy sự háo hức của hai đứa trẻ vì thế mà dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng An vẫn dặn chị đánh thức mình dậy khi tàu đến.
Thời điểm mà đoàn tàu sắp đi qua phố huyện được đánh dấu bằng sự trở lại của tiếng trống thu không. Tiếng trống này đã xuất hiện ngay phần đầu truyện như một dấu hiệu của ngày tàn. Đến đêm, nó lại vang lên “một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”. So với tiếng trống ban chiều rời rạc điểm nhịp sống nặng nề thì tiếng trống cầm canh ban đêm cũng u uất không kém. Bản thân tiếng trống thu không báo hiệu bước đi của thời gian, cũng là dấu hiệu đủ uy lực giục giã nhất phố huyện nhưng dường như sự góp mặt của nó không làm từng bừng hoặc khiến thời gian trôi nhanh mà mọi thứ dường như ngưng động theo cái ao tù phẳng lặng này. Dấu hiệu tiếp theo cho sự xuất hiện của đoàn tàu là những người làm công trong hiệu khách đi đón bà chủ từ tỉnh về. Đoàn tàu xuất hiện với ánh sáng của đèn ghi theo lời hô đầy phấn khởi của bác Siêu.
Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, An và những con người nhỏ bé nơi phố huyện được nhà văn miêu tả tỉ mỉ như thể đó chính là kỳ vọng của nhân vật mình, háo hức đến không nỡ bỏ sót chi tiết nào. Mỗi hình ảnh, âm thanh trong lúc này đều là sự sống, một sự sống đang cựa mình vang động trong đêm. Hai đứa trẻ dùng mọi giác quan nhạy bén vốn có để nhìn, nghe, cảm những gì thuộc về đoàn tàu. Hai đứa trẻ “nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”. Nhìn thấy “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Con tàu mỗi lúc mỗi tiến đến gần hơn, những dấu hiệu của nó ngày thêm rõ rệt “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới”. Khoảnh khắc đoàn tàu đến trước mắt với hai đứa trẻ như một kỳ quan không phải mỗi đêm đều có mà là lâu lắm mới được chứng kiến. Hai đứa trẻ đứng dậy, hành động này xuất phát từ mong muốn được ngắm trọn vẹn mọi ngóc ngách của con tàu cũng là thái độ trân trọng dành cho những gì mình xem là rất quan trọng.
Đáp lại sự mong mỏi của người phố huyện, con tàu hiện ra với “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”. “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Một thế giới sáng rực cùng những gam màu trong mơ “sáng trưng, chiếu ánh, đồng và kền lấp lánh, cửa kính sáng” cùng lúc xuất hiện đãi ngộ cho thị hiếu non nớt nhiều mơ mộng của hai chị em. Thế nhưng cũng như lúc nó xuất hiện, con tàu vội vàng “vụt” qua nơi này trong ánh nhìn còn dài nuối tiếc của bao nhiêu đôi mắt chỉ quen với bóng tối nơi phố huyện. Cách nhà văn đặt đôi mắt cảm nhận ở nhân vật Liên phát huy được hiệu quả diễn đạt. Chỉ có những đứa trẻ chưa hoàn toàn thành người lớn nhưng vẫn có chút hiểu biết của người lớn mới có những giác quan nhạy bén để quan sát mọi thứ chi li dù chỉ là “những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng” và nhận ra tàu hôm nay không còn đông như mọi khi nữa.
Đoàn tàu đã đi xa mãi rồi khuất sau rặng tre, rặng tre thì chìm trong bóng tối. Chuyến tàu đêm đi qua, hoạt động cuối cùng cũng là hoạt động huyên náo nhất trong ngày của nơi này đã kết thúc. Những gì thuộc về sự hào quang phút chốc còn lại cũng đã bị bóng tối nuốt chửng. Chuyến tàu rực rỡ kia chẳng khác nào một tia chớp loé lên ngắn ngủi chưa kịp soi sáng từng khuôn mặt của những người nơi phố huyện đã vụt mất cùng với bao nuối tiếc. Ánh sáng phút chốc của đoàn tàu không thể làm thay đổi bóng tối cố thủ nơi phố huyện nhưng ít ra nó cũng mang đến những ý nghĩa tích cực cho cuộc sống bế tắc, tù túng của con người.
Được nhìn thấy đoàn tàu đêm đi qua đã làm người dân phố huyện thoả mãn thị giác. Đôi mắt họ vốn chỉ quen với từng ấy người, từng ấy việc và nhất là quen với bóng tối bao trùm thì việc nhìn thấy ánh sáng mới lạ của đoàn tàu giống như cảm giác ngắm một ngôi sao xa, vừa ngỡ ngàng vừa thích thú. Cảm xúc này rất cần thiết để duy trì sự sống vì cuộc sống nếu chỉ mãi trong một tâm trạng tẻ nhạt thì có khác nào sự tồn tại của những chiếc bóng. Vậy chuyến tàu đêm đã hoàn thành ý nghĩa tái tạo cảm xúc của con người dù cảm xúc ấy cũng sẽ chóng mất đi.
“Chừng ấy người” chờ đợi một chuyến tàu đêm không phải để bán buôn bởi vì cũng chẳng hành khách nào ghé đến vài ba gian hàng bé xíu trong lúc nửa đêm. Vậy mà đã thành thông lệ, “chừng ấy người” vẫn đợi tàu vì đó là hoạt động sôi nổi, huyên nào nơi phố huyện, hoạt động ấy khác hẳn với cái tĩnh mịch vốn có kéo dài đến ngộp thở của phố huyện. Đoàn tàu mang đến làn gió mới, làn gió của niềm mơ ước về một Hà Nội xa xôi rực rỡ ánh đèn trong mảng ký ức tươi đẹp nhất mà hai chị em Liên, An từng có. Chuyến tàu đêm mở ra một thế giới đầy ánh sáng và mơ ước đối lập với cuộc sống tăm tối hàng ngày. Âm thanh của còi tàu, tiếng hành khách..phần nào khuấy động được sự u ám vốn có của nơi này để trong khoảnh khắc cuộc sống ước mơ của người dân phố huyện được hình dung cụ thể bằng hình ảnh đoàn tàu. Như vậy ý nghĩa không thể phủ nhận của chuyến tàu đêm là nhen nhóm niềm hy vọng sống, dù hy vọng ấy ít ỏi, nhỏ bé.
Hình ảnh đoàn tàu còn là biểu tượng của một thế giới đáng sống. Thế giới ấy có đầy đủ tiện nghi “đồng kền lấp lánh”, có âm thanh, màu sắc và có những con người luôn an nhàn trên những toa hạng sang mà không phải cúi mặt nhìn cuộc đời như bao nhiêu thân phận hẩm hiu nơi phố huyện. Xây dựng ý nghĩa đoàn tàu trên phương diện này, nhà văn đã góp phần phản ánh hiện thực nghèo nàn, lạc hậu của một nơi hẻo lánh dường như bị ánh sáng bỏ rơi. Ấy cũng là hiện thực chung của xã hội Việt Nam trước Cách mạng cần lắm một ánh sáng lý tưởng soi đường.
Không chỉ thế, chuyến tàu đêm xuất hiện bằng cả tấm lòng yêu thương, trân trọng của Thạch Lam đối với những kiếp người vô danh, vô định. Ông cố đem ánh sáng trong tim mình tỏa sáng đoàn tàu để gửi cho họ thông điệp: cuộc sống cần lắm những hy vọng và ước mơ, dẫu cho hy vọng và ước mơ ấy có xa vời cũng nên có hơn là chấp nhận sống lầm lũi, nhạt nhẽo. Vậy nên đoàn tàu còn là lời nhắn gửi chân thành đến những con người bất hạnh: hãy cứ tiếp tục chờ đợi, tiếp tục kiên trì mà sống, sự nhẫn nại rồi sẽ được đáp đền.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng có nhận xét rất thấu đáo về truyện ngắn Hai đứa trẻ và phong cách nghệ thuật tiêu biểu ở Thạch Lam “Truyện ngắn hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quá vãng đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Đọc Hai đứa trẻ thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”. Niềm êm ái và sâu kín mà chúng ta tìm thấy ở Thạch Lam chính là việc xây dựng hình tượng chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Một chuyến tàu chạy trong hành trình hiện thực cũng xuyên suốt hành trình tâm tưởng, hoá thân thành những giấc mơ cổ tích của một lớp người sống lay lắt, ẩn mình vào nỗi sầu của xã hội.
Từ một con tàu đã thắp lên hy vọng sống, Thạch Lam muốn gửi lời của sự sống đến thế hệ mai sau. Đâu đó trong cuộc đời vẫn còn những Liên, An đánh mất tuổi thơ vì gánh nặng áo cơm. Vẫn còn cảnh mẹ con chị Tí sáng mò cua, bắt ốc, tối đến chong đèn chờ đợi bán được ít hàng. Còn những người nghệ sĩ vì đói nghèo mà đem lời ca, tiếng hát mua vui cho đời như bác Xẩm. Còn cả những con người vì bế tắc mà hoá ra điên dại như bà cụ Thi. Thế nên xã hội cần, rất cần những con tàu ánh sáng, con tàu hy vọng được thắp lên từ tấm lòng bao dung, yêu thương của mỗi chúng ta.