VĂN BẢN 2
THƯ LẠI VỤ VƯƠNG THÔNG (TÁI DỤ VƯƠNG THÔNG THƯ)
(Trích Quân trung từ mệnh tập)
Nguyễn Trãi
Trước khi đọc
Bài thơ Bảo kính cảnh giới – bài 57 của Nguyễn Trãi có câu: “Đao bút phải dùng tài đã vẹn”. Hình ảnh “đao bút” đã nói lên quan niệm gì về vai trò của nhà văn và văn chương trong hoàn cảnh đất nước có ngoại xâm?
Gợi ý trả lời: Hình ảnh “đao bút” muốn nói đến vai trò chiến đấu của văn chương trong giai đoạn đất nước bị xâm lăng. Lúc nước nhà nguy biến, nhà văn cũng trở thành chiến sĩ, văn chương, nghệ thuật là mặt trận. Trong văn chương phải có tính chiến đấu, hướng đến công bằng, chính nghĩa, hoà bình, tự do cho nhân dân.
Đọc văn bản
- Những từ nào được nhắc lại nhiều lần trong đoạn này? Điều đó có ý nghĩa gì?
Gợi ý trả lời:
Những từ ngữ được nhắc lại nhiều lần trong đoạn này: thời thế. Điều này muốn nhấn mạnh dụng ý của tác giả khi nhắc nhở Vương Thông về thời thế bất lợi của quân Minh tại thời điểm đó, cũng là cảnh báo với tên tướng giặc rằng nếu không biết nhìn nhận đúng thời thế thì hậu quá sẽ khó lường.
- Tác giả nhắc đến những chuyện xưa nhằm mục đích gì?
Gợi ý trả lời: Tác giả nhắc chuyện xưa nhằm nói chuyện hôm nay. Những tấm gương sáng đời trước đã rành rành, kẻ không hiểu thời thế, bạo ngược ắt sẽ chuốc lấy bại vong. Người trung hậu, ưu thời mẫn thế, chớp được thời cơ sẽ chiến thắng vẻ vang.
- Chỉ ra các nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua.
Gợi ý trả lời: Các nguyên nhân quân giặc tất yếu phải thua:
- Nguyên nhân thứ nhất: Nước lũ mùa hạ chảy tràn, cầu sàn, rào lũy sụp lở, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm => yếu tố thiên nhiên, thời tiết
- Nguyên nhân thứ hai: Các con đường, cửa ải đều bị nghĩa quân trấn giữ, nếu viện binh của giặc đến cũng không thể cứu được. => địa lý không thuận lợi
- Nguyên nhân thứ ba: Quân mạnh ngựa khoẻ của giặc đều đóng ở biên giới phía bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam
- Nguyên nhân thứ tư: liên tiếp động binh đao, dân sống không yên => yếu tố nhân hoà, lòng dân không thuận
- Nguyên nhân thứ năm: Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, người cốt nhục hại nhau, chốn cung đình sinh biến => yếu tố nhân hoà
- Nguyên nhân thứ sáu: Nghĩa quân Lam Sơn trên dưới cùng lòng, hăng say tập luyện, khí giới tinh, vừa cày ruộng, vừa đánh giặc; Quân sĩ trong thành của Vương Thông lại đều mỏi mệt, tự chuốc lấy bại vong => Thuận lợi thuộc về phía nghĩa quân cả về thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
- Giải pháp tác giả đưa ra hợp lí như thế nào cho cả đôi bên?
Gợi ý trả lời: Giải pháp tác giả đưa ra hợp lí cho cả đôi bên:
– Quân Minh của Vương Thông: biết chém lấy đầu Phương Chính, Mã Kỳ đem nộp trước cửa quân thì sẽ tránh cho người trong thành khỏi bị giết, hàn gắn vết thương trong nước, hoà hảo lại thông, can qua dứt hẳn.
– Đại Việt: cầu đường sửa sang, thuyền ghe sắm đủ, thuỷ bộ hai đường, tuỳ theo ý muốn, giữ phận bề tôi, không thiếu chức cống.
Sau khi đọc
Câu 1. Cho biết mục đích và đối tượng của bức thư. Việc tác giả chọn cách nghị luận dưới hình thức một bức thư có tác dụng như thế nào?
Gợi ý trả lời:
- Mục đích của bức thư: thuyết phục quân Minh đầu hàng
- Đối tượng: Tổng binh Vương Thông, tướng giặc Minh, một tên tướng được lệnh vua Minh dẫn năm vạn quân sang cứu viện, bị nghĩa quân vây đánh và kẹt lại trong thành Đông Quan.
- Việc tác giả chọn cách nghị luận dưới hình thức một bức thư có tác dụng phát huy được ưu thế về chức năng của hai thể loại nghị luận và thư từ. Tính nghị luận có lợi thế khi thể hiện ý chí, lời lẽ đanh thép, hùng hồn thuyết phục người nghe về mặt nhận thức. Còn hình thức là bức thư là nơi thể hiện tâm tình, cảm xúc, lời lẽ mềm mỏng, tha thiết tác động về phương diện tình cảm. Như vậy khi kết hợp nghị luận dưới hình thức bức thư sẽ vừa tác động đến nhận thức, lý trí của người nghe vừa có lúc mềm dẻo lay động tình cảm khiến đối phương tâm phục, khẩu phục.
Câu 2. Trong đoạn trích dưới đây, câu văn nào nêu luận điểm, câu văn nào nêu lí lẽ, bằng chứng?
Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?
Gợi ý trả lời:
- Câu luận điểm: Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi
- Câu mang lí lẽ: Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi
- Câu mang dẫn chứng: Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?
Câu 3. Ở phần 2, tác giả nhiều lần vạch rõ sự giả trá, gian dối của quân Minh và cho rằng như thế là trái với “mệnh trời”. Hãy dẫn ra một số từ ngữ, câu văn cho thấy điều đó. Theo bạn, vì sao việc nói đến “mệnh trời” lại cần thiết trong bức thư này?
Gợi ý trả lời:
- Một số từ ngữ, câu văn cho rằng như thế là trái với “mệnh trời”:
Trước đây bề ngoài thì giả cách giảng hòa, bên trong ngầm mưu gian trá, cứ đào hào đắp lũy, ngồi đợi viện binh, tâm tích không minh bạch, trong ngoài lại khác nhau, sao có thể khiến tôi tin tưởng mà không nghi ngờ cho được. Cổ nhân nói: “Bụng dạ người khác ta lường đoán biết”, nghĩa là thế đó. Xưa kia, Tần thôn tính sáu nước, chế ngự bốn phương, mà đức chính không sửa, nên thân mất nước tan. Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy mấy năm nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy.
- Việc nói đến “mệnh trời” cần thiết trong thư: Đây chính là cách nói gậy ông đập lưng ông, dùng luận điệu kẻ thù để vạch mặt tà tâm của kẻ thù. Triều đình phương Bắc luôn cho mình là trung tâm, vua là “thiên tử”, người làm vua là thuận theo “thiên mệnh”, triều đình gọi là “thiên triều”. Vậy mà họ đem cái “thiên mệnh” kia sang nước người để xâm lăng, gây hoạ binh đao, nhũng nhiễu dân chúng, giết chết tan thương. Luận điệu đó thật giả dối, lố bịch, xảo trá.
Câu 4. Khái quát những nguyên nhân thất bại tất yếu của quân Minh mà tác giả đã vạch rõ trong phần 3. Điều gì đã tạo nên tính chất đanh thép, quyết đoán trong phần này?
Gợi ý trả lời:
- Những nguyên nhân thất bại tất yếu của quân Minh:
+ Thiên tai, thời tiết làm hư hại, tổn thất về quân lương, cơ sở vật chất
+ Nước xa không cứu được lửa gần, viện binh đã bị chặn các lối không thể đến cứu viện
+ Quân mạnh ngựa khoẻ của vua nhà Minh đang đối phó với giặc Nguyên nên không thể về Nam
+ Nhiều cuộc chiến tranh liên miên khiến nhân dân trong nước lầm than
+ Triều đình vua bạo chúa, gian thần lộng hành, nội bộ mâu thuẫn
+ Nghĩa quân chúng ta đồng lòng, tinh thần quyết chiến, lương thực đầy đủ, nhuệ khí đang dâng lên cao.
- Điều đã tạo nên tính đanh thép, quyết đoán: Tác giả đã phân tích rõ ràng, xác đáng từng yếu tố gây ra sự bất lợi cho quân Minh từ đó dẫn đến sự thất bại của chúng. Những nguyên nhân chỉ ra cụ thể, trình tự sắp xếp hợp lý từ nguyên nhân khách quan về thời tiết, địa hình cách trở đến nguyên nhân chủ quan từ phía con người. Cả thời lẫn thế quân Minh đều không nắm giữ nên thất bại là không thể tránh khỏi. Khi nói về từng nguyên nhân, tác giả đưa dẫn chứng, lí lẽ rồi mới kết luận “đó là điều phải thua thứ..” như một phán đoán chính xác, quyết liệt.
Câu 5. Trong phần 4, tác giả đã gợi ra cho Vương Thông những lựa chọn nào? Từ đó, bạn hiểu gì về cách ứng xử của Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn?
Gợi ý trả lời: Tác giả đã gợi ra cho Vương Thông những lựa chọn:
- Nếu Vương Thông chấp nhận đầu hàng, đem đầu hai tên tướng đã gây nhiều tội ác là Phương Chính, Mã Kỳ thì tránh được thương vong, có thể an toàn mà về nước, sau này hai bên vẫn giữ mối bang giao như trước đây.
- Nếu không chấp nhận hoà thì giao chiến phân thắng thua chứ đừng chui rút và trốn tránh.
- Cách ứng xử của Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn: Họ đều là những người có tầm nhìn xa trông rộng, biết nắm bắt thời thế, biết cách ứng xử khéo léo vừa cương quyết chiến đấu bảo vệ chính nghĩa vừa thể hiện đức hiếu sinh, trọng chữ tín của người quân tử.
Câu 6. Nêu những lưu ý trong cách đọc hiểu văn bản nghị luận mà bạn rút ra được sau khi đọc Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi. Nhận xét về nghệ thuật viết văn nghị luận của Nguyễn Trãi.
Gợi ý trả lời:
Những lưu ý trong cách đọc hiểu văn bản nghị luận:
- Nắm được luận đề chính (tư tưởng cốt lõi của văn bản)
- Nắm được kết cấu luận điểm của bài nghị luận, cách trình bày lí lẽ, dẫn chứng, sức thuyết phục của văn bản nằm ở đâu.
Nghệ thuật viết văn nghị luận của Nguyễn Trãi:
- Bố cục chặt chẽ, mạch lạc, các phần nối kết lô gic không thể tách rời hoặc đảo vị trí
- Lí lẽ sắc sảo, bằng chứng thực tế, sinh động tạo sức thuyết phục.
- Sử dụng có chọn lọc một số hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ tạo nên giọng văn biểu cảm, mềm mỏng nhưng cũng đanh thép, cứng rắn.