Cảm nhận 9 câu thơ đầu từ “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi …Đất Nước có từ ngày đó..” trong đoạn trích Đất nước ( Trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) – Văn mẫu 12
“Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ”
(Đất nước tôi – Tạ Hữu Yên)
Đất Nước và mẹ và những điều thiêng liêng làm nên nguồn cội, từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nền văn học lấy tinh thần yêu Tổ quốc mình đặt lên vai. Ở mỗi tác giả, chúng ta bắt gặp những cảm hứng khác nhau để từ đó hình tượng Đất Nước chưa bao giờ lặp lại mình qua lăng kính cá nhân của những người làm nghệ thuật. Đến với Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách mới mẻ, độc đáo qua lối thơ giàu chất trữ tình, giọng thơ suy tưởng, mang nhiều triết lý. Nhà thơ trí tuệ này đã dành cả chương 5 – Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng để luận giải về sự ra đời của Đất Nước thông qua nhiều phương diện lịch sử, địa lý, văn hoá dân gian để đi đến khẳng định Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Trong dòng suy tưởng ấy, cội nguồn của Đất Nước hiện ra ở 9 câu thơ đầu tiên.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước có từ ngày đó..”
Những năm đầu của thập niên bảy mươi thế kỷ trước, khi mà đế quốc Mỹ đang dồn sức đẩy cuộc chiến tranh ở miền Nam lên cao trào và không ngừng bắn phá miền Bắc, trong tình thế cam go ấy, cần lắm những con người nhiệt huyết, sẵn sàng xông pha vào tuyến lửa, sẵn sàng đi đầu, xuống đường đấu tranh giành lại hoà bình. Nguyễn Khoa Điềm đã hăng hái viết bản trường ca Mặt đường khát vọng với mong muốn thức tỉnh, thôi thúc thế hệ trẻ hòa mình vào cuộc đấu tranh dữ dội của quần chúng nhân dân. Bằng tấm lòng tha thiết với Tổ quốc, bằng cảm xúc dạt dào của ngòi bút không ngại gian khổ, Nguyễn Khoa Điềm đã bất chấp tiếng bom rơi ngoài hầm trú ẩn, không nao núng trước tiếng gào thét của động cơ phản lực, từng câu thơ như mạch sống cuộn trào.
trong đoạn trích, Đất Nước được viết hoa và cũng là chủ đề bao trùm cả chương. Đất Nước, tiếng gọi thiêng liêng gợi chiều sâu cảm xúc. Đất Nước cũng là tình yêu sâu nặng của nhân dân dành cho những điều giản dị, đời thường. Đất Nước còn gợi chiều dài xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tiếp tục ở tương lai. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng cả nhận thức của trí tuệ và sự rung cảm của tâm hồn để khám phá vẻ đẹp mang tên Đất Nước thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa hai nhân vật “anh” và “em”. Đây là sự hoá thân của tác giả đưa vào mạch thơ cảm xúc tự nhiên, để từ cảm nhận của “anh” và “em” Đất Nước hiện lên trong mọi mặt đời sống nhân dân.
Để lý giải về cội nguồn của Đất Nước, nhà thơ đã phục dựng hình tượng đẹp đẽ này từ quá khứ hiện lên qua cái nhìn hiện tại.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cái hay của nhà thơ không chỉ là nói những cái mới, cái lạ mà từ cái tưởng chừng đã quen, thông qua chất trí tuệ của một nhà thơ giàu suy tưởng, lại trở thành cái những liên tưởng thú vị. Đất Nước có từ rất lâu rồi, điều mà chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên vai trò nhận thức Đất Nước không phải của riêng ai mà là “ta”, bao gồm cả tác giả và mỗi con người trên xứ sở này. Thông thường, chúng ta hay dùng cách nói quen thuộc để chỉ thời gian dài như “khi ta sinh ra” hoặc “khi ta lớn lên”. Xét về nghĩa, “khi ta sinh ra” chỉ thời gian sớm hơn “khi ta lớn lên”. Vậy mà nhà thơ lại sử dụng cách nói “lớn lên”. Phải chăng nhà thơ muốn nói rằng chỉ khi ta “lớn lên” có nghĩa là khi ta đã hình thành nhận thức, đã hoàn thiện về tâm hồn, trí tuệ thì Đất Nước mới thực sự hiện lên đầy đủ, hoàn chỉnh. Cũng khi ấy chúng ta mới biết xúc động, biết yêu quý và tự hào về Đất Nước mình.
Đất Nước được sinh ra từ những câu chuyện cổ, những nét văn hoá dân gian mà mỗi con người đều thấm đẫm câu “ngày xửa ngày xưa”
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”
Cũng như cánh cò trong bài hát ru đi vào tiềm thức mỗi đứa trẻ, những câu chuyện cổ bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”, tuổi ấu thơ ngây dại nhiều mơ mộng cũng bắt đầu từ đấy. Chất giọng ấm áp của mẹ, trầm trầm của bà khi hóa thân vào nàng tiên, cô Tấm, như ngọt ngào hương Thị, say nồng hương cau. Mỗi câu chuyện là hình hài dân tộc, là lời dạy bảo, khuyên răn để qua những cái “ngày xửa ngày xưa” con cháu mai sau nhớ về nguồn cội
“Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
(Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Đất Nước xuất hiện trong truyền thống văn hoá, qua những nếp sống đời thường trở thành nét đẹp trong phong tục.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Miếng trầu cũng từ cổ tích, dáng bà dáng mẹ cũng từ thuở nào bước vào cuộc đời. Sợi dây kết nối giữa văn hoá và thói quen cũng từ đấy mà hình thành. Những thói quen như ăn trầu theo thời gian dần trở thành phong tục. Nét đẹp của phong tục làm nên văn hoá. Còn văn hoá thì trở thành máu thịt của chúng ta. Miếng trầu từ trong cổ tích đi vào cuộc đời, từ trong câu chuyện về nghĩa tình anh em, sự son sắt vợ chồng trở thành món sính lễ không thể thiếu trong ngày cưới của người Việt. Miếng trầu còn nhắc nhỏ cho con cháu bài học về sự chân thành, cởi mở, tấm lòng hiếu khách, lịch sự của nhân dân mình “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Mượn chất liệu dân gian, Nguyễn Khoa Điềm vẫn khéo léo đan cài cách nói ẩn ý của mình. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” mà không phải là “miếng trầu ngày xưa bà ăn”. Đấy là ý đồ phục dựng lại quá khứ một cách tròn đầy ở hiện tại. Miếng trầu đâu chỉ có mặt trong quá khứ, trong tâm tưởng mà còn hiện diện ở thời điểm “bây giờ”. Miếng trầu là tượng trưng cho văn hoá, cho bốn nghìn năm lịch sử, cũng là cho vẻ đẹp ý vị dân gian. Vẻ đẹp ấy có linh hồn, có sức sống bất diệt muôn đời. Câu thơ như sự khẳng định chắc nịch trong hiện tại vẫn có quá khứ, trong cuộc sống hôm nay vẫn hiện hữu bóng dáng hôm qua.
Câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khái quát quá trình phát triển của Đất Nước thông qua hình tượng loài cây quen thuộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Không cần mượn những câu chuyện xa xôi, không cần tìm những hình ảnh lớn lao, tầm vóc như thơ xưa, Nguyễn Khoa Điềm dùng chất liệu dung dị của đời sống nhưng cũng đậm đà chất suy tưởng. Tre bao đời nay gắn với đời sống nông dân Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre lao động, tre anh hùng, tre của những ký ức tuổi thơ không gì thay thế. Và tre xuất hiện trong huyền thoại Tứ bất tử về người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân. Sự liên tưởng này nhà thơ đã khẳng định quá trình lớn lên của Đất Nước chính là quá trình nhân dân ta đấu tranh bảo vệ từng tấc đất mà vũ khí bắt đầu từ cây tre.
Câu chuyện về Đất Nước đâu chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian, ở truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, Đất Nước mình còn được viết bằng đời sống sinh hoạt thường ngày, bằng những thói quen hình thành từ lao động.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Bới tóc là một nét đẹp trong văn hoá cổ xưa. Ngoài dấu hiệu cho thấy người phụ nữ bới tóc là người đã lập gia đình thì bới tóc sau đầu còn xuất phát từ đặc thù công việc đồng áng và khí hậu nóng nực của ta. Những người phụ nữ để tóc dài, búi lên sau gáy đã trở thành nét đẹp giản dị, tự nhiên không cầu kỳ mà vẫn toát lên vẻ thanh thoát vốn có. Chính những cái đẹp bình dị không tên lại là nhịp cầu nối hai bờ thương yêu để từ đấy nghĩa tình vợ chồng sâu nặng qua hình ảnh “gừng cay muối mặn”. Cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là chắt lọc từ thành ngữ dân gian sự tinh túy trong mối quan hệ hôn nhân đó chính là lòng chung thuỷ.
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
(Ca dao)
Tấm lòng son sắt, thuỷ chung trong tình chồng nghĩa vợ qua gian lao, thử thách, qua những tháng ngày cơ hàn có nhau càng thêm nồng đượm, bền chặt. Và cũng chính từ thái độ sống nghĩa tình ấy đã trở thành động lực để ông bà, cha mẹ ta vượt qua tháng ngày gian khổ, dựng xây hạnh phúc gia đình trên cái túng thiếu, khó khăn. Cũng từ đấy thế hệ con cháu ra đời trong niềm vui giản dị.“Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhớ đến thói quen đặt tên con cháu của ông bà ta ngày xưa. Chẳng cầu kỳ bóng bẩy, chẳng vay mượn đâu xa, cứ lấy những vật quanh mình, những điều mộc mạc trong đời sống như “cái kèo, cái cột” để gọi tên. Chất bình dân gắn với cuộc đời mỗi con người từ đấy. Nghe tên đã thấy thương làm sao khi sự thiếu thốn vật chất trong đời sống thường ngày không thể khỏa lấp được tình cảm gắn bó máu thịt của nhân dân với từng vật dụng lao động, từng hình ảnh hiện diện xuyên suốt trong đời sống.
Nhắc đến lao động, đến cuộc sống vất vả của người nông dân phải nhắc đến câu lúa và quá trình làm nên hạt gạo. Cây lúa đến với người nông dân Việt Nam như sự đặc ân của đất mẹ dành cho giọt mồ hôi bao đời mặn. Ngày cây lúa đơm bông là ngày giấc mơ cuộc đời ấm no, hạnh phúc đến gần hơn. Nhìn ở góc độ văn hoá, cây lúa là biểu tượng cho người nông dân Việt Nam. Nhà thơ nhắc về hạt gạo để tái hiện tập quán trồng lúa nước của nhân dân ta bao đời nay.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Không gian lao động hiện ra trong phép liệt kê “xay, giã, giần, sàng”. Từng công đoạn làm ra hạt gạo từ hạt thóc giống ban đầu đâu phải dễ dàng. Chưa kể đến những ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” trên đồng sâu ruộng cạn để cày, cuốc, bừa, trục. Chưa tính những giọt mồ hôi nhỏ xuống để từ một cây mạ non xanh trưởng thành cây lúa chín vàng đồng. Ngay lúc hạt thóc đã thu hoạch về phơi ngoài sân trước muốn trở thành hạt gạo trắng ngần cũng lại là cả một câu chuyện dài. “Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo cơm một hạt đắng cay muôn phần”
(Ca Dao)
Thế nên khi liệt kê quá trình ấy, nhà thơ như cố tạo những khoảng trống và sức nặng trên từng chữ để truyền tải cái sức nặng của cả công đoạn gian lao mà người nông dân phải trải qua. Nặng nhọc với chiếc cối xay trong tay, với chày giã gạo nện đều mỗi đêm và còn nặng lòng khi hạt gạo hôm nay là ước mơ ngày mai tươi sáng. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự khắc nghiệt trong thời tiết, đặt trước công đoạn làm ra hạt gạo để nhấn mạnh bất cứ thành quả nào cũng phải có cái giá của nó. Niềm vui có trong tay hạt gạo thơm phải đổi lấy bao gian nan, khổ cực. Nhắc đến lao động, nhà thơ còn khéo léo gợi về tình nghĩa của nhân dân hình thành trong nỗi gian truân, cực nhọc. Nhờ sự gắn kết, san sẻ, yêu thương mà công việc dù có khó khăn đến đâu cũng cùng nhau hoàn thành.
Cuối cùng để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng mốc thời gian vô hình để nói cái hữu hình có trong mỗi con người chúng ta.
“Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là phép thế cho các mốc thời gian đã nói đến phần trước. Ngày mà bắt đầu từ câu chuyện cổ, hiện hữu trong miếng trầu cau, ngày mà mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau qua ngọt bùi, cay đắng, cũng là ngày con cháu ra đời bằng cái tên dân dã để tiếp bước ông cha nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó” dù không xác định rõ mốc thời gian nhưng trong tâm thức con người Việt ai cũng rõ đó là ngày chúng ta biết thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết vì nhau mà sống.
Câu chuyện lịch sử hình thành một quốc gia, dân tộc đã có các ngành khoa học đảm đương, nhưng câu chuyện về cội nguồn khai sinh mảnh đất quê hương cần ngân vang trong trái tim mỗi con người qua từng câu thơ, tiếng hát. Ở góc độ này, 9 câu thơ đầu trong đoạn trích Đất Nước đã có cái nhìn thú vị về các yếu tố hợp thành Đất Nước. Cũng ngần ấy câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất chính luận kết hợp trữ tình đặc sắc để hình tượng Đất Nước mang chiều sâu tư tưởng. Đồng thời sự góp mặt của các chất liệu văn học dân gian đã khiến cho khái niệm trở nên thi vị, gần gũi, mộc mạc như chính đời sống thường nhật của nhân dân lao động.
Đoạn thơ cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về nguồn gốc hình thành Đất Nước theo sự chiêm nghiệm mang tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để trong chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra Đất Nước có trong mỗi tâm hồn, hiện hữu trong đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước còn là hiện thân của đời sống đấu tranh và lao động. Không chỉ thế, Đất Nước sẽ là tiếng hát đầu tiên ca ngợi lối sống nghĩa tình, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.